Queerbaiting là một thuật ngữ khá phổ biến trong cộng đồng LGBTQ+ và ngành công nghiệp giải trí. Đây là một sự kiện mà nhiều người đã từng gặp phải, nhưng không phải ai cũng hiểu rõ về ý nghĩa của nó. Trong bài viết sau đây, chúng tôi sẽ giúp các bạn hiểu sâu hơn về queerbaiting là gì, tại sao nó gây tranh cãi đối với nhiều người và những tác động của nó lên cộng đồng LGBTQ+ là như thế nào.
Queerbaiting là gì? Queerbaiting là một thuật ngữ để nói về chiến thuật mà ngành giải trí sử dụng để thu hút sự quan tâm của các khán giả, đặc biệt là khán giả thuộc cộng đồng LGBTQ+. Thông qua việc sử dụng các yếu tố về đồng tính như các cặp đôi đồng tính, mối quan hệ của người đồng tính hoặc hóa trang nhân vật theo hướng đồng tính để là “mồi câu” thu hút khách.
Queerbaiting là gì?
Queerbaiting là một thuật ngữ của ngành giải trí, vì thế không phải ai cũng hiểu được queerbaiting là gì. Theo các chuyên gia, queerbaiting là một dạng chiêu thức của ngành giải trí trong việc sử dụng nội dung có liên quan đến cộng đồng LGBTQ+ để làm mồi câu thu hút sự chú ý của khán giả. Nhưng thực tế thì lại không có sự xuất hiện của LGBTQ+ và đó chỉ là chiêu trò lấy LGBTQ+ ra để trục lợi.
Thuật ngữ queerbaiting nếu dịch ra thì cũng có ý nghĩa là dùng cộng đồng LGBTQ+ để làm “mồi câu” khiến khán giả quan tâm đến chương trình, video, tác phẩm âm nhạc hay bộ phim nào đó. Trong đó, từ “queer” mang ý nghĩa là người nằm ngoài hệ nhị nguyên giới (hệ nhị nguyên giới là hai giới nam và nữ, những người nằm ngoài hệ này còn được gọi là phi nhị nguyên giới), còn từ “bait” có nghĩa là mồi câu.
Với sự phát triển vượt bậc của ngành công nghiệp giải trí như hiện nay thì không quá khó để chúng ta bắt gặp những sản phẩm của chiêu trò câu khách này. Nhất là ở những nước có ngành giải trí phát triển như Hàn Quốc hay US-UK.
Bên cạnh đó, queerbaiting cũng ngày càng nhận nhiều lời chỉ trích từ xã hội và nhất là từ cộng đồng LGBTQ+. Bởi vì, nhiều người cho rằng hình thức “câu kéo” khán giả này đang lan truyền những khuôn mẫu sáo rỗng và không giúp gì được cho cộng đồng LGBTQ+. Thậm chí, hiện tượng này còn làm mất đi giá trị và hình ảnh đại diện không đúng đắn của cộng đồng LGBTQ+ đối với công chúng.
Thuật ngữ queerbaiting có nguồn gốc từ đâu?
Vì thuật ngữ queerbaiting được sử dụng trong ngành giải trí nên chúng ta sẽ nghĩ rằng thuật ngữ này có nguồn gốc từ ngành giải trí. Thế nhưng trên thực tế, nguồn gốc của queerbaiting đã xuất hiện khá lâu và ý nghĩa gốc của queerbaiting khi mới ra đời cũng không giống với ý nghĩa hiện nay.
Queerbaiting xuất hiện vào khoảng năm 1950, khi mà người đồng tính còn bị lên án và kỳ thị dữ dội. Nước Mỹ đã phát động một chiến dịch bài trừ người đồng tính trong chính phủ Mỹ từng gây khủng hoảng cho nước Mỹ thời đó. Sự kiện này còn được gọi là Lavender Scare – Khủng hoảng hoa oải hương. Vì lavender là tiếng lóng ám chỉ đồng tính luyến ái trong văn hóa Mỹ.
Chủ nghĩa Lavender Scare được biết đến là những biện pháp điều tra xu hướng tính dục của các nhân viên chính phủ. Nếu là người đồng tính thì họ sẽ bị sa thải vì chính phủ cho rằng họ không đáng tin cậy.
Những người điều tra sẽ giả mạo là người đồng tính hoặc là đồng minh của cộng đồng LGBTQ+. Để xác định chính xác được người đồng tính, người giả mại sẽ tạo dựng niềm tin và cam kết cho người đồng tính một không gian an toàn. Nhưng đó chỉ là những lời hứa suông, trục lợi cho bản thân và gây hại đến những người thuộc cộng đồng LGBTQ+. Hành động này lúc bấy giờ được gọi là queerbaiting.
Vì sao Queerbaiting lại trở thành chiến lược câu khách của ngành giải trí?
Trong thời kỳ đầu của ngành giải trí và điện ảnh, hình ảnh của các nhân vật đồng tính thường “ngầm” xuất hiện để tránh bị xã hội chỉ trích, tẩy chay và để lách luật điện ảnh. Những nhân vật đồng tính thường được đạo diễn khắc họa là người có thiên hướng yểu điệu, nữ tính và yêu nghệ thuật. Cách xây dựng nhân vật như thế gọi là queer coding, nhằm mục đích để khán giả tự hiểu nhân vật đó là người đồng tính.
Vào khoảng năm 2010, thì cộng đồng mạng và công chúng bắt đầu sử dụng thuật ngữ queerbaiting với ý nghĩa dùng LGBTQ+ và những yếu tố đồng tính luyến ái để câu khách như hiện nay. Ý nghĩa của thuật ngữ này về sau cũng được thêm vào từ điển Oxford.
Khác với queercoding thì queerbaiting trong ngành giải trí được xem là một chiến lược marketing để câu kéo khán giả chú ý vào chương trình hoặc tác phẩm nào đó. Trong những chương trình hoặc tác phẩm này, những nhân vật được cho là dị tính sẽ tạo ra những cái “hint” về đồng tính để thu hút khán giả nhằm tạo ra lợi nhuận cho nhà sản xuất.
Ở các nước có ngành giải trí phát triển, điển hình như Hàn Quốc hoặc Hollywood thì chúng ta sẽ không khó nhận ra những chiến lược queerbaiting của các công ty giải trí. Ví dụ như:
Đối với Hollywood, một trong những khoảnh khắc queerbaiting kinh điển nhất trong giới giải trí đó chính là nụ hôn trên sân khấu của Britney Spear và Madonna. Ngoài ra, những tác phẩm điện ảnh cũng mang yếu tố queerbaiting như Sherlock, The Falcon and The Winter Soldier,…Hay các tác phẩm âm nhạc như MV “Lost Cause” của Billie Eilish, MV “Break up with your boyfriend” của Ariana Grande cũng bị chỉ trích vì một số hình ảnh liên quan đến queerbaiting.
Đối với ngành giải trí Hàn Quốc thì không khó nhận ra chiêu trò queerbaiting ở các nhóm nhạc thần tượng. Ví dụ như những khoảnh khắc các idol trong nhóm nhạc nam hoặc nữ có những cử chỉ thân mật, da chạm da với nhau, làm gợi mở về sự đồng tính. Và đặc biệt là các fan lại cực kỳ thích những hành vi đồng tính như thế của idol, nên những hành vi ấy còn được gọi là fan-service.
Còn ở ngành giải trí nước ta, chiến lược queerbaiting cũng được sử dụng khá nhiều khi mà cộng đồng LGBTQ+ ngày càng được đón nhận hơn. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp queerbaiting trên các chương trình truyền hình hay phim ảnh với hình ảnh các nam diễn viên giả gái một cách lố lăng, mang yếu tố gây cười cho khán giả.
Hoặc cụ thể là trong chương trình “Người ấy là ai”, cũng đã bị lên án khá nhiều về việc sử dụng cụm từ “Giới tính thứ 3” để tạo sự thu hút thay vì gọi là cộng đồng LGBTQ+. Trong một số tác phẩm video âm nhạc thời gian gần đây cũng sử dụng nhiều yếu tố về tình yêu đồng giới qua những hình ảnh thân mật giữa nam với nam hoặc nữ với nữ nhưng lại không rõ ràng là có phải đồng tính hay không.
Chúng ta có thể dễ dàng thấy được, trong K-pop, chỉ cần vài cái “hint” mà các idol nam dành cho nhau trên sân khấu cũng khiến fan cảm thấy thích thú. Sau đó là hàng loạt fanfic, tranh ảnh ghép đôi ra đời. Công ty chủ quản không tốn quá nhiều công sức và tiền bạc để quảng bá mà vẫn tăng được sự yêu mến của fan dành cho idol.
Tất cả những chiêu trò sử dụng queerbaiting này của ngành giải trí chủ yếu cũng chỉ là vì muốn đem về lợi nhuận cho các nhà sản xuất, nhà đầu tư. Queerbaiting là cần câu kiếm ra tiền, chứ hoàn toàn không mang lại lợi ích gì cho cộng đồng LGBTQ+. Thậm chí còn khiến hình ảnh đại diện của cộng đồng LGBTQ+ bị sai lệch đi và gây ra sự mơ hồ cho cho công chúng.
Hy vọng rằng với những chia sẻ của Shopkiss đã giúp các bạn hiểu hơn về thuật ngữ queerbaiting là gì. Qua đó, cũng biết được cách mà ngành giải trí sử dụng queerbaiting như một cái cần câu thu hút sự quan tâm của khán giả để tạo ra lợi nhuận và sự nổi tiếng. Và hiểu được lý do vì sao cộng đồng LGBTQ+ lại lên án queerbaiting. Vì nó chính là chiêu trò marketing có thể gây hại cho cộng đồng LGBTQ+.